Tốc độ kết nối Internet
Trong bối cảnh Công nghiệp 4.0, tốc độ cũng quan trọng không kém truy cập, do đó, từ năm 2011 đến 2019, số lượng công ty truy cập kết nối Internet nhanh đã tăng gấp ba lần. Năm 2018, 20% công ty EU tuyên bố rằng kết nối Internet của họ nằm trong khoảng từ 2 Mb/giây đến 10 Mb/giây. 24% doanh nghiệp cho biết tốc độ kết nối Internet của họ nằm trong khoảng từ 10 đến 30 Mb/giây. 25% doanh nghiệp cho biết kết nối của họ nằm trong khoảng từ 30 đến 100 Mb/giây và 18% công ty EU có kết nối Internet trên 100 Mb/giây.
Năm 2019, 16% công ty tham gia điều tra của DESI tuyên bố rằng tốc độ kết nối Internet của họ nằm trong khoảng từ 2 đến 10 Mb/giây. 23% có kết nối nằm trong khoảng từ 10 đến 30 Mb/giây. Hơn 27% cho biết kết nối Internet của họ nằm trong khoảng từ 30 đến 100 Mb/giây, trong khi 23% công ty đang sử dụng kết nối Internet hơn 100 Mb/giây.
Về tầm quan trọng của dữ liệu và thông tin trong Công nghiệp 4.0, an ninh mạng là một yếu tố quan trọng cần xem xét. Theo báo cáo của DESI, năm 2019, 34% doanh nghiệp EU tuyên bố rằng họ tập trung vào an ninh mạng và có các giao thức an toàn CNTT-TT thiết lập các quy trình cụ thể mà nhân viên cần tuân theo. 93% công ty cho biết họ đã triển khai ít nhất một giao thức an toàn mạng. Việc triển khai các biện pháp an ninh mạng diễn ra rộng rãi giữa các công ty lớn cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ: gần 99% công ty lớn và 92% doanh nghiệp vừa và nhỏ tuyên bố rằng họ sử dụng một số biện pháp an ninh mạng, nhưng các biện pháp bảo mật được thực hiện rất đa dạng.
Hầu hết các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu đều đề ra các biện pháp an ninh mạng đơn giản, bao gồm: cập nhật phần mềm liên tục (87%), xác thực thiết bị bằng mật khẩu mạnh (77%) và liên tục thực hiện sao lưu ở các vị trí riêng biệt bao gồm sử dụng giải pháp đám mây (76%). Chỉ một số công ty tuyên bố rằng họ đã áp dụng các biện pháp an ninh mạng tinh vi hơn như kiểm tra bảo mật (36%) hoặc đánh giá rủi ro (34%) và chỉ 9,5% công ty triển khai các phương pháp sinh trắc học để nhận dạng và xác thực người dùng.
Về điện toán đám mây, dữ liệu của Eurostat cho thấy năm 2018, 26% công ty EU tuyên bố rằng họ đã truy cập dịch vụ điện toán đám mây. Năm 2020, con số này tăng 12%, đạt 36% doanh nghiệp EU sử dụng điện toán đám mây. Hầu hết các công ty tuyên bố rằng họ thường sử dụng đám mây cho e-mail và lưu trữ tệp ở dạng điện tử. Đồng thời, giữa các nước EU có những khác biệt lớn. Tại các nước phía Bắc như Phần Lan (75%), Thụy Điển (70%), Đan Mạch (67%), trên 60% doanh nghiệp cho biết thường xuyên sử dụng điện toán đám mây. Ngược lại, ở Hy Lạp (17%), Rumani (16%) và Bulgari (11%), chưa đến 20% công ty thường xuyên sử dụng các dịch vụ dựa trên đám mây.
Hầu hết các công ty sử dụng dịch vụ điện toán đám mây đều hoạt động trong lĩnh vực thông tin và truyền thông (71%). Đối với tất cả các ngành kinh tế khác, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng điện toán đám mây dao động từ 27% đến 43%. Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất có mức tăng cao nhất (+19%) trong việc sử dụng điện toán đám mây so với năm 2018.
Một yếu tố liên quan khác thể hiện sự khác biệt đáng kể giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ trong việc sử dụng điện toán đám mây: 65% công ty thuê 250 nhân lực trở lên sử dụng điện toán đám mây, tăng 12% so với năm 2018 trong khi chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ tuyên bố họ sử dụng điện toán đám mây vào năm 2020. Tuy nhiên, cả doanh nghiệp vừa và nhỏ đều ghi nhận mức tăng 12% so với năm 2018, lần lượt đạt 33% và 46%.
In 3D hay "sản xuất bồi đắp", đề cập đến việc sử dụng các máy in đặc biệt nội bộ bởi chính công ty, hoặc thông qua thuê ngoài bằng cách sử dụng các dịch vụ in 3D do các công ty khác cung cấp để tạo ra các vật thể vật lý ba chiều sử dụng công nghệ kỹ thuật số.
Năm 2020, 5% công ty châu Âu thuê ít nhất 10 nhân lực tuyên bố rằng họ sử dụng công nghệ in 3D (nội bộ hoặc thuê ngoài). Con số này tăng 1% so với năm 2018. Số lượng công ty sử dụng in 3D cao nhất vào năm 2020 là của Đan Mạch (9%) và Malta (8%) trong khi tỷ lệ nhỏ nhất là của các doanh nghiệp ở Rumani (2%).
Giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có sự khác biệt đáng kể trong việc sử dụng in 3D: 13% doanh nghiệp lớn sử dụng in 3D như một phần của quy trình sản xuất và chỉ 4% doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận công nghệ này. Công nghệ này chủ yếu được sử dụng bởi các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất (9%), tiếp theo là các doanh nghiệp hoạt động trong các hoạt động chuyên môn, khoa học và kỹ thuật (6%) và trong lĩnh vực thông tin và truyền thông (5%).
Sử dụng dữ liệu lớn. Trong những năm qua, do những tiến bộ của CNTT-TT, số lượng dữ liệu số được tạo ra, lưu trữ và xử lý trên toàn thế giới không ngừng tăng theo cấp số nhân, bởi vì mọi hoạt động trực tuyến đều dẫn đến việc tạo ra một loạt các nhãn hiệu kỹ thuật số, do kích thước, tính đa dạng và tốc độ của chúng được gọi là dữ liệu lớn.
Theo dữ liệu được thu thập từ các công ty EU, năm 2018, 12% công ty thuê ít nhất 10 nhân lực báo cáo đã sử dụng phân tích dữ liệu lớn. Xu hướng phân tích dữ liệu lớn cũng giống như các yếu tố đo lường khác, chủ yếu được thực hiện bởi các doanh nghiệp lớn (33%) và doanh nghiệp vừa (19%). Khi đánh giá tình trạng của các quốc gia thành viên EU, số lượng công ty sử dụng phân tích dữ liệu lớn cao nhất có trụ sở tại Malta (24%), Hà Lan (22%), Bỉ (20%) và Ireland (20%). Trong khi đó, các công ty từ Ý (7%), Bulgari (7%), Hungary (6%), Áo (6%) và Síp (5%) sử dụng phân tích dữ liệu lớn với số lượng thấp hơn rất nhiều.
Các doanh nghiệp phân tích dữ liệu lớn tuyên bố họ sử dụng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, những nguồn phổ biến nhất là vị trí địa lý và dữ liệu truyền thông xã hội. Gần 50% công ty cho biết họ sử dụng dữ liệu vị trí địa lý từ các thiết bị di động (49%) và dữ liệu từ các mạng truyền thông xã hội (45%). Chỉ 29% công ty phân tích dữ liệu lớn từ thiết bị thông minh và 26% sử dụng dữ liệu từ các nguồn khác. Đối với các doanh nghiệp lớn, phần lớn phân tích được thực hiện bởi nhân viên (90%) và 75% cho biết họ thuê nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài cho hoạt động này. 42% doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa vào các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài để phân tích dữ liệu lớn và 40% tuyên bố rằng hoạt động này được thực hiện bởi chính nhân viên của họ.
Báo cáo DESI (2020) cũng phân tích lực lượng lao động và vai trò của nó trong việc phát triển nền kinh tế kỹ thuật số ở Liên minh Châu Âu. Theo dữ liệu, năm 2018, hơn 9 triệu người làm việc với tư cách là chuyên gia CNTT-TT trên khắp Liên minh Châu Âu. Các công ty từ Vương quốc Anh và Đức mỗi nước tuyển dụng khoảng 1,6 triệu chuyên gia CNTT-TT, trong khi các công ty từ Pháp có hơn 1,1 triệu chuyên gia CNTT-TT.
Theo dữ liệu năm 2019, gần 20% công ty tuyên bố rằng họ thuê chuyên gia để tạo ra, quản lý hoặc bảo trì các hệ thống và ứng dụng CNTT-TT. Ở đây, cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa doanh nghiệp lớn (75%) và doanh nghiệp vừa và nhỏ (19%). Một khía cạnh nữa liên quan đến đặc thù của lao động CNTT-TT đề cập đến khả năng tuyển dụng nhân sự của các công ty. Trong năm 2018, gần 57% công ty tuyển dụng hoặc cố gắng tuyển dụng các chuyên gia CNTT-TT cho biết, họ gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng các vị trí như vậy. Trên 64% doanh nghiệp lớn và 56% doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng gặp khó khăn này. Các công ty từ Rumani và Sec cho biết họ gặp nhiều khó khăn hơn khi tuyển dụng hoặc cố gắng tuyển dụng các chuyên gia CNTT, vì 80% công ty tuyên bố rằng họ không thể tìm được nhân viên cho các vị trí tuyển dụng cụ thể này.
Kết luận
Sử dụng các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến, chẳng hạn như Internet vạn vật hoặc phân tích dữ liệu lớn, có thể đảm bảo cho các công ty tăng năng suất và hiệu quả, đồng thời, mang lại cơ hội phát triển mới cho các doanh nghiệp EU từ mọi lĩnh vực hoạt động. Phân tích về sự hiện diện của các yếu tố Công nghiệp 4.0 trong các công ty sản xuất ở EU cho thấy về tốc độ truy cập Internet và kết nối Internet, hầu hết các doanh nghiệp Châu Âu đã cố gắng phát huy và khai thác các lợi thế, và điều này tương quan với các nỗ lực của Châu Âu và quốc gia nhằm đảm bảo kết nối và truy cập Internet.
Các yếu tố khác của Công nghiệp 4.0, chẳng hạn như điện toán đám mây hoặc sử dụng dữ liệu lớn, ít được các doanh nghiệp EU áp dụng hơn, với sự khác biệt đáng kể giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này có thể được giải thích là do các chi phí và nguồn lực liên quan đến quá trình áp dụng công nghệ.
TH