Luật Doanh nghiệp của Việt Nam không định nghĩa bản điều lệ là gì mà chỉ liệt kê các nội dung chính nó phải có (Điều 22 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Luật công ty mẫu của Mỹ cũng không định nghĩa Bản điều lệ là gì. Còn từ điển về luật của Mỹ thì giải nghĩa đó là những điều khoản hành chính do một tổ chức lập nên để quy định công việc quản trị bên trong và giao dịch với bên ngoài của tổ chức ấy.
Nói một cách dễ hiểu thì Bản điều lệ là bản thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các cổ đông và giữa các cổ đông với nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu chung của luật pháp (luật doanh nghiệp, luật thuế, luật lao động, luật tài chính, kế toán...) để ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của một doanh nghiệp.
Trên ý nghĩa đó cho thấy, bản điều lệ giống như một bản hợp đồng có “tính chất quy định”. Tuy nhiên, vì công ty là “tổ chức do luật pháp đặt ra” nên khác với các bản hợp đồng thông thường, bản điều lệ có thể trưng ra được cho những người thứ ba và buộc họ phải chấp nhận “tính chất đối kháng” khi giao dịch với công ty. Ví dụ, các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng…
Do “tính chất đối kháng” của bản điều lệ nên các ngân hàng và những người muốn mua, đầu tư công ty xem bản điều lệ rất kỹ; thậm chí cả các văn bản mà đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị ban hành theo các quy định của bản điều lệ để biết công ty được làm gì nhằm ràng buộc nó vào hành vi mà nó muốn thực hiện với họ (vay tiền, hay bán Công ty, kêu gọi đầu tư…).
Như đã nêu, bản điều lệ được soạn dựa theo các khuôn khổ của các quy định pháp luật khác nhau nhằm điều chỉnh sự hình thành, phát triển, kể cả sự phá sản của “tổ chức” mà những người sáng lập muốn dựng xây bằng tiền của mình và của người khác. Luật điều chỉnh nhiều nhất trong phạm vi này là Luật doanh nghiệp [3]. Thành ra khi soạn thảo bản điều lệ những người sáng lập công ty sắp xếp ý muốn của họ đi theo các khuôn khổ luật định mà đã được cắt đẽo, thêm bớt theo nguyên tắc “không trái pháp luật” để thực hiện việc đầu tư của mình. Những người ấy thực sự không muốn chia xẻ quyền quản lý và điều hành công ty của mình với ai; nhưng vì cần tiền của người khác nên họ phải làm trái đi một cách bất đắc dĩ. Vậy vấn đề là chia xẻ thế nào, nhượng bớt những gì để mình không mất nhiều mà những người mình muốn họ hợp tác chấp nhận và nằm trong khuôn khổ của luật pháp đã được vận dụng. Ngoài ra còn phải tính đến chủ trương của luật quy định; Luật hiên hành khi được xây dựng nghiêng về đối tượng nào trong số các đối tượng được điều chỉnh. Chẳng hạn, Luật doanh nghiệp năm 2005 chủ trương bảo vệ cổ đông ít vốn, và làm mạnh hơn luật năm 2000 nhiều. Khả năng xoay trở trong khuôn khổ “không trái pháp luật” mà những người sáng lập có thể làm được nằm ở cách thức và thời gian góp vốn, cơ cấu tổ chức của công ty, thủ tục họp hành, thể thức quyết định... để làm sao đạt được mục đích của mình.
Vì lẽ trên, bản điều lệ phải du nhập vào nó những điều khoản của Luật doanh nghiệp đã “được xử lý lại” để những người sáng lập vận hành được “tổ chức”. Nó là sự cụ thể hóa Luật doanh nghiệp vào hoàn cảnh cụ thể của một doanh nghiệp. Công việc ấy đòi hỏi người sáng lập phải thực tế, hiểu biết “lòng người” để đừng dại dột trói tay mình chặt hơn luật quy định. Ví dụ, luật quy định muốn ngưng buổi họp đại hội giữa chừng thì phải có 51% cổ phần của những người hiện diện chấp thuận thì bản Điều lệ đừng lý tưởng hóa lòng tốt của con người để nâng lên thành “của toàn thể cổ đông hiện diện”; hoặc luật quy định cổ phần của người từ trần sẽ được chuyển sang cho người thừa kế thì các cổ đông sáng lập có thể suy nghĩ “không trái luật” rằng: “chơi với cổ đông hiện tại thì biết chứ chơi với con hay cháu nó thì biết thế nào”; vậy họ sẽ bàn bạc để ghi trong bản điều lệ rằng “cổ phần của người từ trần sẽ được bán lại cho công ty”. Vậy bản điều lệ lặp lại Luật doanh nghiệp, nhưng trong một số vấn đề mà những người sáng lập quan tâm, nó đi sâu hơn, chi tiết hơn Luật doanh nghiệp. Cũng chính vì việc “đi sâu hơn” này mà các cổ đông sáng lập còn ký kết với nhau hợp đồng góp vốn trước khi ký bản điều lệ, bởi vì có những điều họ muốn nhưng không thể ghi vào bản điều lệ . Ví dụ, ông Nguyễn Văn A, ông Trần Minh B, bà Nguyễn Thị C góp vốn, họ đồng ý là ông Nguyễn Văn A sẽ luôn luôn là chủ tịch. Trong bản điều lệ, theo Luật doanh nghiệp, họ chỉ có thể ghi “hội đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch” chứ không thể ghi một cách cụ thể là ông Nguyễn Văn A được. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề nữa mà các cổ đông sáng lập phải làm nhưng không thể ghi vào bản điều lệ. Ví dụ một số việc phải làm trước khi công ty thành hình nhưng sau này công ty không thành lập được. Vì những rắc rối của thực tế cuộc sống mà Luật doanh nghiệp không thể tiên liệu được cho nên một bản điều lệ muốn đạt mục đích “quy định” và “đối kháng” của nó thường phải mở rộng luật bằng cách vận dụng luật. Do vậy, một bản điều lệ làm theo mẫu do cơ quan đăng ký kinh doanh đề nghị thì không bao giờ đủ, chưa kể đến việc trong đó có những điều khoản phục vụ lợi ích của cơ quan quản lý nhiều hơn là cho lợi ích của những người bỏ tiền. Một môi trường đầu tư thuận lợi hơn nằm nhiều ở chỗ tôn trọng quyền lợi của người đầu tư khi luật pháp được áp dụng chứ không phải ở chỗ luật thông thoáng. Luật thông thoáng nhưng đến tay các công chức nhà nước có trách nhiệm mà họ bịt lại thì mãi mãi môi trường đầu tư sẽ chỉ tốt đẹp trên... lời nói.
CASTI Hub (tổng hợp)